Lịch sử loài người cho ta biết những sự việc diễn ra trong đời sống con
người kể từ khi nó xuất hiện trên Trái Đất. Khoa học, đặc biệt là Khảo
cổ học và Cổ sinh học, đã tìm được bằng cứ nói lên sự phát triển lâu
dài của sinh giới, từ động vật cấp thấp lên động vật cấp cao. Đỉnh cao
của quá trình này là sự chuyển biến từ vượn thành người.
1. Sự xuất hiện loài người và đời sống bầy người nguyên thuỷ
Ở chặng đầu của quá trình hình thành loài người, có một loài vượn cổ,
sống khoảng 6 triệu năm trước đây, đã có thể đứng và đi bằng hai chân,
dùng tay để cầm nắm, ăn hoa quả, lá và cả động vật nhỏ. Xương hoá thạch
của chúng được tìm thấy ở Đông Phi, Tây Á và cả ở Việt Nam.
Trên đà tiến triển, vượn cổ chuyển biến thành người tối cổ, bắt đầu từ
khoảng 4 triệu năm trước đây. Di cốt Người tối cổ được tìm thấy ở Đông
Phi, Gia-va (Inđônêxia), Bắc Kinh (Trung Quốc) v.v… Ở Thanh Hoá (Việt
Nam), tuy chưa thấy di cốt nhưng lại thấy công cụ đá của người cổ đó.
Người tối cổ hầu như đã hoàn toàn đi đứng bằng hai chân. Đôi tay được
tự do để sử dụng công cụ, kiếm thức ăn. Cơ thể của họ đã có nhiều biến
đối: tuy trán còn thấp và bợt ra sau, u mày còn nổi cao, nhưng hộp sọ
đã lớn hơn của loài vượn cổ và đã hình thành trung tâm phát tiếng nói
trong não.
Tuy chưa loại bỏ hết dấu tích vượn trên cơ thể mình, Người tối cổ đã là
người. Đây là hình thức tiến triển nhảy vọt từ vượn thành người, là
thời kỳ đầu tiên của lịch sử loài người.
Từ chỗ sử dụng những mảnh đá có sẵn để làm công cụ, Người tối cổ đã lấy
những mảnh đá hay hòn cuội lớn, đem ghè một mặt cho sắc và vừa tay cầm.
Như thế là bắt đầu biết chế tác công cụ. Công cụ thô kệch này được gọi
là đồ đá cũ (sơ kì). Với những chiếc rìu đá kiểu đó, người ta chặt cây
làm gậy hoặc dùng trực tiếp làm vũ khí, tự vệ hay tấn công các con thú
để kiếm thức ăn.
Từ chỗ giữ lửa lấy trong tự nhiên năm này qua năm khác để sưởi ẩm, đuổi
dã thú, nướng chín thức ăn, con người đã biết ghè hai mảnh đá với nhau
để lấy lửa. Đây là một phát minh lớn mà nhờ đó, con người có thể sử
dụng một thứ năng lượng quan trọng bậc nhất, cải thiện căn bản đời sống
của mình.
Qua lao động, chế tạo công cụ và sử dụng công cụ, bàn tay con người
khéo léo dần. Do đó, cơ thể cũng biến đổi theo để có tư thế lao động
thích hợp. Tiếng nói thuần thục hơn do nhu cầu trao đổi với nhau. Con
người tự cải biến mình, hoàn thiện mình từng bước nhờ lao động.
Ở một số loài động vật đã hình thành một cách tự nhiên quan hệ hợp
đoàn, có đôi, có đàn và con đầu đàn. Người tối cổ đã có quan hệ hợp
quần xã hội: có người đứng đầu, có phân công lao động giữa nam và nữ,
cùng chăm sóc con cái.
Họ sống trong hang động , mái đá hoặc cũng có thể dựng lều bằng cành
cây, da thú, sống quây quần theo quan hệ ruột thịt với nhau, gồm 5 – 7
gia đình. Mỗi gia đình có đôi vợ chồng và con nhỏ chiếm một góc lều hay
góc hang. Bây giờ chưa có những quy định xã hội nên người ta gọi những
hợp quần xã hội đầu tiên này là bầy người nguyên thuỷ.
Bầy người nguyên thuỷ vẫn còn sống trong tình trạng “ăn lông ở lỗ”, một cuộc sống tự nhiên, bấp bênh, triền miên hàng triệu năm
2. Người tinh khôn và óc sáng tạo
Cuối thời kỳ này, khoảng 4 vạn năm trước đây, con người hoàn thành quá
trình tự cải biến mình, đã loại bỏ hết dấu tích vượn trên người, trở
thành Người tinh khôn hay còn gọi là Người hiện đại.
Người tinh khôn có cấu tạo cơ thể như chúng ta ngày nay: xương cốt nhỏ
hơn Người tối cổ; bàn tay nhỏ, khéo léo, các ngón tay linh hoạt; hộp sọ
và thể tích não phát triển, trán cao, mặt phẳng; cơ thể gọn và linh
hoạt, tạo nên tư thế thích hợp với các hoạt động phức tạp của con
người. Di cốt Người tinh khôn được tìm thấy ở khắp các châu lục.
Đây là bước nhảy vọt thứ hai, sau bước nhảy từ vượn thành Người tối cổ.
Cũng từ đấy, khi lớp lông mỏng trên người không còn nữa, ở Người tinh
khôn lại xuất hiện những màu da khác nhau, chia thành da vàng, da đen
và da trắng. Đó là ba chủng tộc lớn.
Tuy nhiên, chủng tộc là sự khác nhau thuần tuý theo những đặc điểm thân
thể bên ngoài, chứ không phải là sự chênh lệch về trình độ trí tuệ. Sự
khác nhau đó là kết quả của quá trình thích ứng lâu dài của con người
với những hoàn cảnh tự nhiên khác nhau.
Trong việc chế tạo công cụ, Người tinh khôn đã biết ghè hai rìa của một
mảnh đá, làm cho nó gọn và sắc cạnh hơn, dùng làm rìu, dao, nạo. Họ còn
lấy xương cá, cành cây đem mài hoặc đẽo nhọn đầu để làm lao.
Từ đó, con người tiến tới biết chế toạ cung tên. Cung tên là một thành
tựu lớn trong toàn bộ quá trình chế tạo công cụ và vũ khí. Với cung
tên, con người mới có thể săn bắn hiệu quả và an toàn.
Thức ăn của con người đã tăng lên đáng kể, nhất là thức ăn động vật, từ
khi kỹ thuật thời đá cũ được hoàn thiện và đặc biệt là từ khi có cung
tên.
Người ta cũng có thể rời hang động ra dựng lều, định cư ở những địa
điểm thuận tiện hơn. Hình thức cư trú “nhà cửa” phổ biến ở Người tinh
khôn từ cuối thời kỳ đá cũ.
Đến khoảng một vạn năm trước đây, loài người tiến vào thời đá mới.
Điểm nổi bật của công cụ đá mới là người ta có thể ghè đẽo những mảnh
đá thành hình dạng gọn và chính xác, thích hợp với từng công việc, với
nhiều kiểu loại theo những yêu cầu khác nhau (dao, rìu, đục…), được mài
nhẵn ở rìu lưỡi hay toàn thân, được khoan lỗ hay có nấc để tra cán.
Có thể nói rằng, công cụ thời đá cũ vẫn là những mảnh đá được ghè đẽo
thô sơ, còn thời đá mới là những mảnh đá được ghè sắc và mài nhẵn thành
hình những loại công cụ.
Cũng thời gian này, người ta biết đan lưới đánh cá bằng sợi vỏ cây và
làm chì lưới bằng đất nung, biết làm đồ gốm để đựng và đun nấu (nồi,
bát, vò…)
Câu hỏi - Nêu những tiến bộ kỹ thuật khi Người tinh khôn xuất hiện và những tiến bộ kỹ thuật của thời đá mới.
3. Cuộc cách mạng thời đá mới
Các nhà khảo cổ coi thời đá mới là một cuộc cách mạng, khi con người từ
lượm hái, đánh cá, săn bắn đã tiến tới biết trồng trọt và chăn nuôi.
Việc lượm hái năm này qua năm khác đã đem lại kinh nghiệm trồng và thu
hoạch theo thời vụ một số cây lương thực, thực phẩm như khoai, củ, bầu,
bí, lúa v.v… Đi săn, bắt được thú nhỏ, người ta giữ lại để nuôi và
thuần dưỡng thành gia súc, trước tiên là chó rồi đến cừu, lợn (heo), bò
v.v…
on người có óc sáng tạo, và ở thời đá mới này, ho bắt đầu biết khai
thác từ thiên nhiên cái cần thiết cho cuộc sống của mình, chứ không chỉ
thu lượm cái có sẵn trong thiên nhiên.
Người ta cũng bắt đầu làm sạch những tấm da thú để che thân cho ấm và
cho “có văn hoá”. Những chiếc cúc (khuy) và kim làm bằng xương tìm thấy
trong những di chỉ văn hoá đã nói lên điều đó.
Người ta đã biết dùng đồ trang sức nên đã làm vòng cổ từ vỏ ốc và hạt
xương, làm vòng tay, vòng cổ chân, hoa tai… từ đá màu (bằng cách đem
khoan lỗ rồi lấy dây xâu lại).
Các nhà khảo cổ còn tìm thấy cả chiếc sáo bằng xương dùi lỗ, đàn đá và có lẽ, còn có cả trống bịt da.
Như thế, từng bước, từng bước, con người không ngừng sáng tạo, kiếm
được thức ăn nhiều hơn, sống tốt hơn và vui hơn. Tuy nhiên, quá trình
đó rất dài (4 – 5 vạn năm), trong đó cuộc sống còn thấp kém và bấp
bênh. Đời sống con người chỉ tiến bộ với tốc độ nhanh hơn và ổn định
hơn từ thời đá mới, khoảng 1 vạn năm trước đây.