Câu 2:Có thể tham khảo những luận điểm chính sau đây (không cần thiết tuân theo thứ tự):
-
Vai trò của sách trong thời đại thông tin nghe – nhìn: khẳng định các
phương tiện thông tin nghe - nhìn đang phát triển ngày nay không thể
thay thế được hoàn toàn cho việc đọc sách.
- Tác dụng của việc đọc sách:
+ Cung cấp thông tin, tri thức mọi mặt.
+ Bồi dưỡng giáo dục, nâng cao khiếu thẩm mĩ, làm cho tâm hồn con người phong phú.
+ Giáo dục đạo đức, tình cảm, hoàn thiện bản thân và góp phần xây dựng đất nước.
+ Chú ý, cảnh giác với sách có nội dung độc hại.
+ Đọc sách là cái đích hướng đến của tất cả mọi người trong khát vọng chinh phục tri thức.
Câu 3.a:
I. Giới thiệu tác phẩm:
Truyện
ngắn Vợ chồng A Phủ vừa là thành tựu tương đối hiếm hoi của văn xuôi
kháng chiến, vừa ghi dấu sự trưởng thành của ngòi bút Tô Hoài trong sự
chiếm lĩnh mảng đề tài miền núi, một đề tài tới nay vẫn còn nhiều mới
lạ với bạn đọc. Truyện được tổ chức chặt chẽ, dẫn dắt rất dung dị, tự
nhiên, không cần chạy theo những chi tiết li kì rùng rợn mà vẫn có sức
hút mạnh mẽ. Có được điều đó chính là nhờ cái nhìn hiện thực sắc bén và
chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc của nhà văn. Sự thể hiện cuộc đời hai nhân
vật trung tâm từ bóng tối đau khổ, ô nhục vươn ra ánh sáng của tự do và
nhân phẩm đã chứng minh rất rõ điều đó.
II. Phân tích giá trị nhân đạo:-
Cô Mỵ xinh đẹp, chăm làm nhưng nghèo khổ, có thể nói “khổ từ trong
trứng”. Bố mẹ nghèo, cưới nhau không có tiền phải vay nợ nhà thống lý.
Nợ chưa trả hết, người mẹ đã qua đời. Bố già yếu quá, món nợ truyền
sang Mỵ, thống lý Pá Tra muốn Mỵ làm con dâu “gạt nợ”. Mà quan trên đã
muốn, kẻ dưới làm sao thoát được! Pá Tra xảo quyệt, lợi dụng tục lệ của
người Mèo, cho cướp Mỵ về. Thế là không có cưới hỏi, không cần tình yêu
mà vẫn hoàn toàn hợp lẽ.
- Tô Hoài đã lột trần bản chất bóc lột
của giai cấp thống trị ở miền núi trước cách mạng, đại diện là gia đình
thống lý Pá Tra. Cô Mỵ, tiếng là con dâu nhưng thực sự là một nô lệ,
thứ nô lệ người ta không phải là mua mà lại được tha hồ bóc lột, hành
hạ. Mỵ ở nhà chồng như ở giữa địa ngục. Không có tình thương, không sự
chia sẻ vợ chồng; chỉ có những ông chủ độc ác, thô bạo và những nô lệ
âm thầm, tăm tối. Dần dần rồi Mỵ cũng quên luôn mình là con người nữa.
Suốt ngày “Mỵ lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, lúc nào cũng cúi
mặt, thế giới của Mỵ thu hẹp trong một cái ô cửa sổ” mờ mờ trăng trắng,
không biết là sương hay là nắng”. Kết quả của hoàn cảnh sống thật chua
xót: “Ở lâu trong cái khổ Mỵ quen rồi”, cô nhẫn nhục, cam chịu đến
thành tê liệt ý thức: “Là con trâu, con ngựa phải đổi từ cái tàu ngựa
nhà này sang tàu ngựa nhà khác, con ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết làm
mà thôi”.
- Cô gái trẻ trung, yêu đời ngày nào thổi sáo hồi hộp
chờ đợi người yêu, đã từng hái lá ngón định ăn để khỏi chịu nhục, giờ
đây lại chai lì, u uất. Hoàn cảnh quyết định tính cách. Nguyên tắc biện
chứng của chủ nghĩa hiện thực đã được nhà văn thể hiện khá sắc nét. Sự
yếu đuối của kẻ nô lệ, sự vùi dập tàn bạo của bọn bốc lột tất sẽ dẫn
đến cảnh ngộ bi đát ấy.
- Nếu xem xét giá trị hiện thực của một
tác phẩm như là sự phản ánh chân thật cuộc sống, thì Vợ chồng A Phủ quả
là bản cáo trạng hùng hồn về nỗi thống khổ của người phụ nữ miền núi,
vừa chịu gánh nặng của chế độ phong kiến, vừa bị trói chặt trong xiềng
xích của thần quyền.
- Nhà văn đã cung cấp cho người đọc những
chi tiết có giá trị bóc trần bản chất xã hội vô nhân đạo, ở đó thân
phận người dân nghèo mong manh bất ổn. Cảnh cô Mỵ lặng lẽ ngồi lơ lững
trong những đêm đông buốt giá, thằng chồng thì đi chơi về khuya ngứa
tay đánh Mị ngã dúi xuống đất. Lại còn có cái hình ảnh nhức nhối phũ
phàng: người con gái bị trói đứng vào cột trong buồng tối, bị trói chỉ
vì muốn đi chơi tết như bạn bè. Sự bất lực của Mỵ tràn theo dòng nước
mắt chua chát trên má môi mà không có cách gì lau đi được.
- Sự
xuất hiện của nhân vật chính A Phủ tạo thêm tình huống để hoàn chỉnh
bức tranh hiện thực. Cuộc đời nô lệ của A Phủ thật ra là sự lặp lại với
ít nhiều biến thái chính cuộc đời Mỵ. Lý do mà thống lý Pá Tra buộc A
Phủ phải thành người ở công không, không phải vì cuộc ấu đả thường tình
của đám trai làng. Vấn đề là ở chỗ pháp luật trong tay ai? Khi kẻ phát
đơn kiện cũng đồng thời là kẻ ngồi ghế quan toà thì còn nói gì tới công
lý nữa! Vậy nên mới có cảnh xử kiện quái gỡ nhất trên đời mà chúng ta
được chứng kiến tại nhà thống lý. Kết quả là người con trai khỏe mạnh
phóng khoáng vì lẽ công bằng mà phải đem cuộc đời mình trả nợ nhà quan.
- Tô Hoài trong khi đào sâu vào hiện thực đã phát hiện ra con đường tất
yếu mà các nhân vật của ông đi tới. Sự đè nén quá nặng nề, những đau
khổ chồng chất mà bọn thống trị gây ra tất sẽ dồn những kẻ khốn cùng ấy
tới sự chống trả và nếu gặp được ánh sáng soi đường, họ sẽ đến được
thắng lợi. Lấy việc miêu tả tâm lí làm điểm tựa, Tô Hoài đã tìm ra được
sự phát triển logic của tính cách. Đây thật sự là một giá trị nhân đạo
độc đáo của tác phẩm, và là chỗ có sức thuyết phục mạnh mẽ nhất.
-
Có ngọn lửa nào đang được khơi lên bằng hơi men. Chỉ biết rằng cô gái
đã quyết thay váy áo đi chơi, điều mà bao năm rồi cô không nhớ đến. Có
thể coi đây là một bước đột biến tâm lý nhưng là kết quả hợp lý toàn bộ
quá trình tác động qua lại giữa hoàn cảnh với tính cách nhân vật. Sự
“vượt rào” của Mỵ tuy bị đàn áp ngay (A Sử đã tắt đèn, trói đứng cô vào
cột); nhưng ý thức về quyền sống, khát vọng về hạnh phúc đã trở lại. Mị
lại biết khóc, lại muốn tự tử. Và những giọt nước mắt trong cái ngày
tàn nhẫn này sẽ lưu giữ trong lòng Mỵ như một vết bỏng rát để đến khi
bắt gặp những dòng nước mắt chảy “lấp lánh” trên gò má hốc hác của A
Phủ, nó đã biến thành sự đồng cảm sâu sắc giữa những người cùng khổ.
Toàn bộ ý thức phản kháng của Mị hiện hình qua một câu hỏi sáng rõ:
“người kia việc gì phải chết?” Mỵ quyết định trong khoảnh khắc: cắt dây
trói giải thoát cho A Phủ. Và tất nhiên, Mỵ cũng bỏ trốn, tự giải thoát
chính mình. Hai kẻ trốn chạy chịu ơn nhau, cảm thông nhau, dựa vào nhau
để tạo lập hạnh phúc. Thế nhưng cái đồn Tây lù lù xuất hiện và lại có
cha con thống lý Pá Tra về ở trong đồn, thì họ thật sự bị dồn đến chân
tường. Trước mặt họ, chỉ còn sự lựa chọn cuối cùng: trở lại kiếp nô lệ
hay chống kẻ thù. Chắc chắn họ thà chết còn hơn lại sống như cũ. Nhưng
muốn chống kẻ thù, họ trông cậy vào ai? Cách mạng đã đến với họ đúng
giây phút ấy. Mỵ và A Phủ đi theo cách mạng, sẽ thuỷ chung với cách
mạng như một lẽ tất yếu! Đó là tấm lòng nhân đạo mới mẻ của Tô Hoài nhờ
có ánh sáng của cách mạng.
- Bằng sự am hiểu cuộc sống và khả
năng phân tích những vấn đề sắc bén, nhất là bằng ngòi bút miêu tả tâm
lý tinh tế, Tô Hoài đã tái hiện chân thật và sinh động cuộc hành trình
từ đau khổ, tối tăm ra phía ánh sáng cách mạng của những người dân lao
động với chế độ cũ. Tác phẩm đem lại cho bạn đọc nhận thức đúng đắn về
con đường cách mạng dân tộc dân chủ ở nước ta.
- Giá trị hiện
thực của Vợ chồng A Phủ đã để lộ cái nhìn nhân đạo, ưu ái của Tô Hoài.
Khi cô đúc nỗi cùng khốn vào hai thân phận nô lệ với ý thức làm một bản
cáo trạng về xã hội cũ, Tô Hoài đã gợi lên trong chúng ta sự căm phẫn,
sự đau xót. Đó cũng là tấm lòng nhân đạo của nhà văn trước sự bất hạnh
của đồng loại.
- Tính chân thật, chính xác, logic ở những đoạn
mô tả tâm lí, nhưng rõ ràng phải biết thông cảm, biết trân trọng nâng
niu con người lắm, mới có thể xét đoán tâm hồn người ta tinh tế như
vậy. Đó là con người biết yêu quý tự do, biết khẳng định quyền sống.
Ngay cả lúc bị hoàn cảnh vùi dập đến mê mụ, trong tro tàn của lòng cô
vẫn âm ỉ đốm than hồng của niềm ham sống, khao khát thương yêu. Nếu nhà
văn chỉ tuân theo một thứ hiện thực khách quan, lạnh lùng thì làm sao
ông có thể đón đợi và nắm bắt tài tình giây phút sống lại bất ngờ và
mãnh liệt đến thế của cô gái. Ông vẫn tin rằng hoàn cảnh dẫu có khắc
nghệt đến mấy, cũng không thể tiêu diệt hoàn tòan nhân tính. Mị đã sống
lại bằng tuổi trẻ, bằng nỗi day dứt về thân phận của mình. Chính cái
khát vọng sống mãnh liệt không thể chết được ở Mị, làm cho Mị đồng cảm
với cảnh ngộ của A Phủ và đi đến quyết định giải thoát cho A Phủ, giúp
Mị tự giải thoát khỏi cái chốn địa ngục để làm lại cuộc đời, để sống
như một con người. Thể hiện một niềm tin mạnh mẽ vào con người, đó là
tấm lòng nhân đạo cao cả của nhà văn.
III. Tô Hoài đã
trân trọng từng bước trưởng thành của Mỵ và A Phủ. Cái nhìn của ông về
hai nhân vật này là một cái nhìn nhân đạo tích cực. Ông cảm thông nỗi
đau của Mỵ và A Phủ, mặt khác ông trân trọng ý thức nhân phẩm, khát
vọng giải phóng và tin ở khả năng tự làm chủ trước cuộc đời của hai con
người đau khổ này. Phải chăng, chính cái nhìn đó đã tạo nên giá trị
nhân văn của tác phẩm.